Cuộc Tổng khởi nghĩa 19/8 và Quốc khánh 2/9 đã để lại cho chúng ta nhiều
bài học thành công quý giá, trong đó có bài học lớn về chính sách dân
tộc sáng suốt, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân nhờ tìm ra được
“mẫu số chung" về lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội.
Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam
Áp dụng một chính sách dân tộc đúng đắn
trong mối quan hệ đan chéo giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp để
cuối cùng hướng đúng dòng chảy của khát vọng độc lập, tự do của mọi
người dân Việt Nam. Đó là một trong những tiền đề quan trọng để cuộc
Cách mạng Tháng Tám thành công và khai sinh nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á. Đó cũng là bài học mà sau 74 năm vẫn còn nguyên
giá trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta
có một lòng yêu nước nồng nàn. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lượt qua mọi
sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2012, t.7 tr. 38).
“Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam” với lòng
yêu nước thương nòi có những nét riêng so với các dân tộc khác, do quá
trình hình thành dân tộc, do đặc điểm văn hóa, tập tính, cách giáo dục
trong gia đình và trong cộng đồng, do vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử
mà cụ thể là truyền thống chống giặc ngoại xâm hàng nghìn năm...
Từ năm 1945 đến nay cách mạng Việt Nam
đã đi từ thử thách này đến thử thách khác, đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác – đuổi phát xít Nhật, chống thực dân Pháp, “đánh cho Mỹ cút,
đánh cho ngụy nhào”, thống nhất đất nước và xây dựng nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Trên mỗi chặng đường của cách mạng Việt Nam, Đảng ta có
những sách lược, chiến lược khác nhau phù hợp với bối cảnh lịch sử và
nhiệm vụ cụ thể. Song xuyên suốt các chặng đường đó là tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc.
Tư tưởng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh hình thành trong giai đoạn Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp,
vì vậy nội dung chủ chốt của vấn đề dân tộc ở Việt Nam là độc lập, tự
do. Nhiệm vụ trước mắt vào thời điểm đó của cách mạng Việt Nam là chống
đế quốc, thực dân chứ chưa phải là cuộc cách mạng dân chủ như ở nhiều
nước không phải là thuộc địa. Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta được đặt
sau cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945
khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm
nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm
nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!... Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước
tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Hơn một năm sau, trong Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chúng
ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ!”.
Tiếp đó, ngày 17/7/1966, khi đế quốc Mỹ ồ
ạt đưa quân viễn chinh vào tham chiến trực tiếp trên chiến trường miền
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “...Chiến tranh có thể kéo dài
5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Một đặc điểm nổi bật trong tư tưởng dân
tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là mối quan hệ gắn chặt làm một của hai vấn
đề là độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Năm 1887, nhằm thi hành chính sách chia
để trị, thực dân Pháp lập ra “Liên bang Đông Dương” thuộc Pháp, gồm năm
xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Cao Miên) do một viên Toàn quyền
người Pháp đứng đầu.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày
2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên án thực dân Pháp về việc chia cắt đất
nước Việt Nam: “Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn
cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”.
Gần một năm sau, trong Thư gửi đồng bào
Nam Bộ (tháng 6/1946), Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân
nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không
bao giờ thay đổi!”.
Chân lý này đã được ghi trong Khoản 1,
Điều 5, Hiến pháp năm 2013: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt
Nam”.
Mẫu số chung về lợi ích của các tầng lớp nhân dân
Sự thành công của Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám 1945 dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày
2/9 và những thắng lợi kế tiếp sau đó của cách mạng Việt Nam là dựa trên
nền tảng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, vượt qua những mâu
thuẫn giai cấp để chống lại kẻ thù chung của dân tộc.
Để tập hợp các tầng lớp xã hội đang có
mâu thuẫn với nhau về quyền lợi thì Đảng ta và Bác Hồ đã tìm ra được
“mẫu số chung” về lợi ích của toàn dân tộc, tức giải quyết mối quan hệ
giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc một cách khoa học, biện chứng và
phù hợp với hoàn cảnh lịch sử.
Đó chính là bài học về phương pháp cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra kẻ thù
chung của mọi tầng lớp người Việt Nam, dù là “dân cày, dân buôn, nhà tư
sản, công nhân” - đó là giặc ngoại xâm, cụ thể là thực dân Pháp. Bản
Tuyên ngôn độc lập viết: “Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho
dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho
các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô
cùng tàn nhẫn”.
Từng câu chữ của Bác rất khúc chiết, nêu
bật chiến tuyến giữa “ta” (người Việt) – “dân ta, các nhà tư sản ta,
công nhân ta” và “chúng” (thực dân Pháp). Bác viết: “…Chúng tuyệt đối
không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những
luật pháp dã man. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng
tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc
khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.
Để có được nền độc lập cho nước nhà vào
ngày 2/9/1945 thì trước đó, vào ngày 19/5/1941, Đảng Cộng sản Đông Dương
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi
tắt là Việt Minh. Đây là liên minh chính trị do Bác Hồ làm Chủ tịch với
mục đích công khai là "Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng
phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh
đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa".
Tiếp đó, ngày 6/6/1941 Bác Hồ gửi thư
thư kêu gọi các bậc phụ huynh, các hiền nhân chí sĩ, các bậc phú hào yêu
nước, các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu
thương đoàn kết lại để đánh đổ bọn đế quốc và tay sai: “Trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết
lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước
sôi lửa nóng. Cách mạng là việc chung của toàn thể nhân dân. Sự nghiệp
chống đế quốc, tay sai giành độc lập, tự do là nhiệm vụ của toàn dân
tộc. Chuẩn bị lực lượng và lực lượng vũ trang, đặc biệt là đội quân
chính trị quần chúng có ý nghĩa rất cơ bản. Nhiệm vụ đánh Pháp- Nhật
không phải là nhiệm vụ riêng của thợ thuyền và dân cày, mà là nhiệm vụ
chung của cả dân tộc không phân biệt giai cấp”.
Như vậy là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn
nhận rằng các vị kỳ hào, địa chủ, tư sản… trước hết là những người Việt
Nam trong thân phận của người dân mất nước, trong họ tiềm tàng năng lực
chống thực dân, đế quốc, có thể tập hợp họ vào một tổ chức cứu quốc cùng
với nông dân, thợ thuyền. Dù các vị này thuộc giai tầng trên (nhưng
không phải là những kẻ thống trị) thì ý nghĩa của từ “đồng bào” vẫn lớn
hơn hết thảy.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Sử học Vũ Quang
Hiển (Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội) viết: “Nhờ có sự đổi mới về tư duy, chính trị, tổ chức mà đến giữa
tháng 8/1945, cao trào kháng Nhật dưới ngọn cờ của Hồ Chí Minh, Đảng và
Tổng bộ Việt Minh đã tạo dựng được đội quân chính trị quần chúng hùng
hậu, có tính chất dân tộc rộng rãi, sẵn sàng và quyết tâm khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước. Vì vậy, cuộc Cách mạng Tháng Tám có ưu
điểm lớn so với các cuộc cách mạng nhiều nước trên thế giới. Đó là cuộc
cách mạng tập hợp được tuyệt đại bộ phận nhân dân cả nước, diễn ra nhanh
chóng và ít đổ máu”.
“Mẫu số” trong trang sử mới
Sau 74 năm, đặc biệt là sau 33 năm đổi
mới, đất nước Việt Nam bước sang một trang sử mới với những thành tựu to
lớn về chính trị, kinh tế - xã hội và vị thế trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay đã
xuất hiện những thách thức không thể xem nhẹ đối với nền tảng đại đoàn
kết toàn dân, làm suy giảm sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Đó
là nguy cơ “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, sự trỗi dậy của chủ
nghĩa cá nhân và nhóm lợi ích cũng như thái độ thờ ơ chính trị, vô cảm
đối với những giá trị thiêng liêng nhất của dân tộc. Bên cạnh đó, các
thế lực thù địch đẩy mạnh việc kích động tư tưởng ly khai, chia rẽ dân
tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân, khoét sâu các mâu thuẫn xã hội, kích động tụ tập đông người
bất hợp pháp, bạo loạn, làm mất ổn định chính trị - xã hội.
Điều này đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta
phải đưa ra những nghị quyết, chính sách mới trong việc tập hợp mọi tầng
lớp nhân dân vì sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, tiếp tục hoàn
thiện hệ thống chính trị của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng
lực cầm quyền của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước để củng
cố vững chắc niềm tin của các giai cấp, dân tộc, các tầng lớp nhân dân
vào con đường cách mạng đã chọn.
Bên cạnh việc ban hành những quyết sách
mang tính vĩ mô thì Đảng và chính quyền cần phải xác định được “mẫu số
chung mới” về lợi ích giữa các giai cấp, dân tộc, lực lượng xã hội, các
thành phần kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Theo Tổng cục Thống kê, Việt Nam hiện
nay có gần 20 triệu nông dân, 11 triệu công nhân, 4,9 triệu trí thức,
2,4 triệu công chức, viên chức, 2 triệu doanh nhân (hoạt động trong hơn
346.000 doanh nghiệp), hơn 13 triệu người thuộc các dân tộc thiểu số,
khoảng 24 triệu người theo đạo… Bên cạnh đó là 4,5 triệu người Việt đang
sinh sống tại 109 quốc gia trên thế giới.
Các giai cấp, tầng lớp, nhóm dân cư ở
nước ta đang trong quá trình phân hóa, sự khác biệt về mức thu nhập và
hưởng thụ ngày càng lớn. Sự chênh lệch giàu nghèo giãn rộng giữa các
giai tầng, nhóm dân cư, vùng miền đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền tảng
đại đoàn kết dân tộc.
Thực tiễn cách mạng từ năm 1945 đến nay
cho thấy sự đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa
quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Điều quan trọng hiện
nay là phải không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, bảo đảm mỗi người dân đều sống trong môi trường an toàn, an ninh
và được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Cụ thể, bảo đảm
công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng,
hợp pháp của các giai cấp, dân tộc, lực lượng xã hội, các thành phần
kinh tế, nhóm dân cư…
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng
chỉ rõ: “Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân
dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những
điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề
cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để
tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường
quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Kỷ niệm 74 năm Quốc khánh nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là dịp thích hợp để chúng ta ôn lại và suy
ngẫm sâu hơn về bài học lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc rút từ hiện
thực đấu tranh cách mạng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công”.
Nguồn: dangcongsan.vn